Phát triển năng lượng sạch ở Việt Nam: tiềm năng lộng gió

Việt Nam được đánh giá là “người hùng điện gió” mới và sẽ sớm vươn lên dẫn đầu lĩnh vực khai thác điện gió ở Đông Nam Á. Bên cạnh lợi thế đường bờ biển dài, tốc độ gió cao, cùng một dự án điện gió ngoài khơi lớn nhất thế giới đang được xây dựng, ngành năng lượng gió Việt Nam vẫn còn nhiều thử thách phía trước.

[Vietnamese] Wind Power Farm
Ảnh: Nhà máy điện gió Bạc Liêu ở đồng bằng sông Cửu Long - Việt Nam. Nguồn. : Shansov.net, CC BY-SA 3.0 qua Wikipedia Commons

Read the story in English here.

Ở một khu vực từ lâu vẫn luôn trung thành với nguồn nhiên liệu hóa thạch như Đông Nam Á, thì thị trường năng lượng gió đang lớn mạnh tại Việt Nam rõ ràng là một ví dụ thành công cho ngành năng lượng tái tạo trong năm 2019.

Là một trong những quốc gia chịu tác động nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu, Việt Nam đã ra sức đầu tư sản xuất điện gió nhằm bắt kịp nhu cầu năng lượng trong nước đang tăng vọt và giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Việt Nam đang đề ra các mục tiêu phát triển điện gió tham vọng hơn bất kỳ nước nào khác trong khu vực. Song song đó, các chính sách hấp dẫn cũng đã kêu gọi được nhiều nhà đầu tư từ khắp nơi trên thế giới.

Tổng công suất điện gió hiện nay là 327 MW. Với nguồn vốn nước ngoài đang tăng lên, Việt Nam dự kiến vào năm 2021 sẽ lắp đặt các dự án điện gió cả ngoài khơi lẫn trong đất liền nhằm nâng công suất lên 1GW. Nếu thành công, Việt Nam sẽ vượt qua Thái Lan để vươn lên dẫn đầu ngành năng lượng gió trong khu vực. Việt Nam cũng là quốc gia duy nhất trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Asean) phát triển điện gió ngoài khơi với các dự án đã được lắp đặt hiện đạt 99 MW.

Không dừng lại ở đó, trong bản quy hoạch phát triển điện lực quốc gia hiện hành, Việt Nam còn có mục tiêu nâng tổng công suất điện gió lên 6.000 MW vào năm 2030.

Chính phủ (Việt Nam) đã nhận ra rằng năng lượng gió không những có chi phí thấp mà còn là nguồn điện bền vững. Với nhu cầu điện ngày càng tăng như hiện nay, đây là hướng đi hợp lý.

Bà Liming Qiao, giám đốc khu vực châu Á của Hội đồng Năng lượng Gió toàn cầu (GWEC)

Vào tháng 7, chính phủ đã cấp giấy phép khảo sát xây dựng nhà máy điện gió ngoài khơi lớn nhất thế giới với công suất 3.400 MW ở mũi Kê Gà, tỉnh Bình Thuận. Sau khi hoàn thành, công suất của dự án này này sẽ vượt xa các nhà máy nhiệt điện sử dụng than, khí đốt và kể cả nhà máy thủy điện lớn nhất quốc gia.

Bà Liming Qiao, giám đốc khu vực châu Á của Hội đồng Năng lượng Gió toàn cầu (GWEC) cho biết, với nhu cầu tiêu thụ năng lượng đang tăng cao ở Việt Nam như hiện nay, nhà nước đang tập trung vào đường bờ biển dài 3.300km để phát triển tiềm năng điện gió cả ngoài khơi lẫn trong đất liền. Chỉ riêng điện gió ngoài khơi, ước tính có thể đạt công suất 309 GW, cũng đủ để đáp ứng toàn bộ nhu cầu năng lượng của Việt Nam trong vài thập kỷ tới.

Bà Qiao cũng nói thêm: “Chính phủ (Việt Nam) đã nhận ra rằng năng lượng gió không những có chi phí thấp mà còn là nguồn điện bền vững. Với nhu cầu điện ngày càng tăng như hiện nay, đây là hướng đi hợp lý.”

Một yếu tố khác thúc đẩy sự phát triển của ngành năng lượng này chính là xu hướng giảm chi phí trong sản xuất, dẫn đến việc giá thành các tuabin gió sẽ ngày càng cạnh tranh hơn trên thị trường, nhất là ở một đất nước mà nhiệt điện còn đóng vai trò chủ đạo.”

Cơn gió lành

Việt Nam với dân số 96,7 triệu người là một trong những quốc gia có nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới. Trong giai đoạn 2016-2020, nhu cầu năng lượng trung bình hằng năm tăng khoảng 10,5%. Các dự báo cho thấy xu hướng này có nhiều khả năng sẽ tiếp diễn đến năm 2030, gây quan ngại về an ninh năng lượng, đặc biệt là ở các khu vực công nghiệp và đô thị lớn .

Ông Olivier Duguet, nhà sáng lập và giám đốc điều hành của công ty Vòng Tròn Xanh (The Blue Circle) tại Singapore, nhận xét: “Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt năng lượng ở miền Nam, nơi có nhu cầu về năng lượng và tốc độ tăng trưởng cao. Hoạt động sản xuất điện truyền thống hiện đang vấp phải nhiều ý kiến trái chiều, bao gồm các cuộc biểu tình phản đối xây dựng nhà máy nhiệt điện than. Ngoài ra, tốc độ xây dựng các nhà máy nhiệt điện cũng khó lòng bắt kịp tiến độ sản xuất, dễ dẫn đến nguy cơ thiếu điện trong 2-3 năm tới. Trong khi đó, năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió, lại là nguồn tài nguyên dồi dào ở miền Nam với chi phí thấp và có thể triển khai nhanh chóng”.

Việc sử dụng năng lượng gió không chỉ tăng cường an ninh năng lượng mà còn giải quyết mối lo về giá nhập khẩu than vốn thường biến động.

[Vietnamese] Vietnam wind installations and targets in MW

[Eco-Business]: Thực trạng và mục tiêu năng lượng gió ở Việt Nam (trong đất liền và ngoài khơi). Nguồn: GWEC

Tuy mang về lợi ích kinh tế do chi phí thấp, than gây ảnh hưởng đáng kể lên sức khỏe của người dân.

Theo báo cáo chất lượng không khí thế giới năm 2018, 95,5% dân số Đông Nam Á sống ở những khu vực có chất lượng không khí vượt quá mức giới hạn an toàn của Tổ chức Y tế Thế giới.

Hầu hết các nhà máy nhiệt điện than của Việt Nam tập trung ở miền Bắc. Vào tháng 10 năm 2019, chỉ số chất lượng không khí của Hà Nội đã đưa thủ đô vào danh sách các thành phố có độ ô nhiễm không khí cao nhất thế giới. Bà Liming Qiao, giám đốc khu vực Châu Á của Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu nói rằng, có nhiều nguyên nhân gây ô nhiễm không khí ở Việt Nam, tuy nhiên, xỉ than từ nhà máy nhiệt điện là yếu tố nổi bật nhất và sử dụng năng lượng gió chính là giải pháp lý tưởng cho thực trạng này.

Luật sư Lưu Hoàng Hà tại Công ty Luật Quốc tế Việt Nam (VILAF) cho rằng, ngành năng lượng gió với chuỗi cung ứng dài, nhu cầu về nhân lực cao, sẽ mang lại nhiều lợi ích như tạo việc làm cho người dân và thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương.

Mục tiêu tham vọng

Tính đến tháng 9 năm 2018, cả nước sản xuất được 47.900 MW điện. Để đáp ứng nhu cầu năng lượng đang ngày càng lớn, Việt Nam sẽ cần khoảng 130 GW điện vào năm 2030, ước tính vốn đầu tư khoảng 150 tỷ USD.

Chính phủ đã đưa ra nhiều cơ chế hỗ trợ khác nhau để thu hút các nhà đầu tư quốc tế và cân bằng rủi ro cho thị trường mới nổi này. Các cơ chế đó bao gồm ưu đãi thuế, theo đó các nhà phát triển năng lượng tái tạo được miễn một số loại thuế; tạo điều kiện hợp tác cho các đối tác công-tư trong lĩnh vực này cũng như tăng giá thành năng lượng gió bán cho lưới điện quốc gia.

Theo dữ liệu mới nhất, giá điện gió năm 2018 từ các nhà máy trong đất liền được bán cho lưới điện quốc gia là 8,5 US cent/kWh, còn từ các cơ sở ngoài khơi là 9,8 US cent/kWh.

Mức giá này sẽ hết hạn trong năm 2021 và trong 2 năm, tới thị trường năng lượng gió Việt nam sẽ chứng kiến nhiều điều thú vị khi các nhà đầu tư hiện đang khẩn trương thi công dự án trước khi chương trình này kết thúc.

Dù có nguồn tài nguyên dồi dào, thị trường năng lượng gió Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn đầu với nhiều thách thức.

Sự tồn tại của nhiều yếu tố rủi ro đã làm các nhà phát triển cũng như các nguồn cho vay quốc tế chùn bước khi tiến vào thị trường này. Vì vậy, nguồn kinh phí chính là khó khăn lớn nhất hiện nay.

Một trong những yếu tố rủi ro chính là việc Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) - cơ sở duy nhất thu mua toàn bộ điện từ các nhà sản xuất, sẽ toàn quyền trong các hoạt động thanh toán và đàm phán hợp đồng mua bán điện mà không có sự tham gia của nhà nước. Theo quan điểm của nhiều nhà đầu tư, điều này dẫn đến khả năng thiếu minh bạch trong các giao dịch với EVN và không mang lại lợi nhuận về lâu dài.

Luật sư Hà của VILAF cho biết: “Thông thường các nhà đầu tư sẽ nhận được một số điều khoản bảo đảm từ chính phủ dành cho những dự án điện gió ngoài khơi lớn với mức đầu tư đáng kể, tuy nhiên, trong giai đoạn này, các nhà đầu tư vẫn chưa nhận được sự bảo đảm đó từ phía nhà nước”

[Vietnamese] Asean wind installations and targets (onshore and offshore)

[Eco-Business]: Thực trạng và mục tiêu năng lượng gió ở khu vực Đông Nam Á (trong đất liền và ngoài khơi). Nguồn: GWEC

[Vietnamese] Asean wind installations and targets (onshore and offshore) 1

[Eco-Business]: Thực trạng và mục tiêu năng lượng gió ở khu vực Đông Nam Á (trong đất liền và ngoài khơi). Nguồn: GWEC

Trong khi nguồn năng lượng gió của Việt Nam vô cùng dồi dào thì các nhà phát triển lại chật vật với hệ thống lưới điện chưa đạt chuẩn và hoạt động chưa ổn định của các tuabin dọc bờ biển.

Theo ông Trần Tuấn Anh, Bộ trưởng Bộ Công thương, điều kiện tiên quyết để đẩy nhanh tốc độ phát triển năng lượng tái tạo chính là củng cố lưới điện quốc gia. Ông cũng thừa nhận rằng mình đã không lường trước được sự phát triển bùng nổ của năng lượng tái tạo, dẫn đến việc hệ thống truyền tải điện không bắt kịp quá trình chuyển đổi như hiện nay.

Luật sư Hà nhận xét : “Tình trạng lưới điện hiện tại của Việt Nam cùng với việc thiếu dung lượng dự trữ là nguyên nhân khiến cho năng lượng tái tạo không thể phát triển nhanh chóng. Chúng ta cần phải đầu tư nhiều hơn nữa vào cơ sở hạ tầng lưới điện quốc gia.” Ông cũng nói thêm rằng, đây chính là lý do vì sao chính phủ và EVN đã vạch ra một kế hoạch đầy tham vọng cho việc đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng truyền tải điện. Theo đó, EVN phải gấp rút đảm bảo công suất truyền tải được đưa vào hoạt động. Hiện nay, khâu chuẩn bị và công tác thi công đã được triển khai.

Bà Qiao (GWEC) cho biết, công suất lưới điện luôn là vấn đề tồn đọng trong ngành năng lượng tái tạo vì nhiều quốc gia cố gắng tích hợp vào hệ thống điện sẵn có, vốn chỉ được thiết kế để sản xuất điện tập trung chứ không phải dành cho nguồn điện không ổn định như năng lượng mặt trời hay điện gió. Bà nói, để có thể sản xuất năng lượng sạch, hệ thống cần phải được thay đổi. Một trong những thay đổi đó chính là cải thiện tính linh hoạt của lưới điện bằng cách khai thác các nguồn năng lượng tái tạo liên tục như thủy điện, ở quy mô lớn có thủy điện tích năng, hoặc sử dụng pin ở quy mô nhỏ để đảm bảo nguồn cung ổn định và bền vững ngay cả khi không có gió hay mặt trời. Tuy nhiên, để có thể thực hiện được điều này, Việt Nam cần phải kêu gọi nhiều vốn đầu tư hơn nữa, đặc biệt là từ các ngân hàng phát triển đa phương.

Các nhà phát triển còn phải đối mặt với khả năng thiếu lao động chất lượng cao cũng như tình trạng chậm phát triển của những ngành công nghiệp phụ trợ.

Mặc dù có tiềm năng phát triển khá cao nhưng tương lai của ngành năng lượng gió vẫn chưa xác định. Biểu giá bán hiện tại chỉ áp dụng cho đến tháng 11/2021, tuy vậy, chính phủ vẫn chưa tiết lộ hướng phát triển sau khi chương trình này kết thúc. Theo đó, nhà máy điện gió ở mũi Kê Gà dự kiến đến năm 2027 mới có thể hoàn thiện, cũng đang chịu ảnh hưởng bởi biểu giá này.

Nhiều chuyên gia đã đề xuất các phương án để chính phủ Việt Nam có thể áp dụng nhằm thúc đẩy phát triển điện gió, chẳng hạn như tăng dần giá bán điện sản xuất ra từ nguồn năng lượng tái tạo và xử lý triệt để các vấn đề liên quan đến vay vốn. Bên cạnh đó, giảm thiểu các bước thủ tục trong quá trình chờ phê duyệt dự án sẽ giúp tiết kiệm chi phí và thu hút được nhiều doanh nghiệp tham gia hơn. Ngoài ra, rút ngắn thời gian đàm phán các thỏa thuận thu mua điện với EVN cũng là một giải pháp đáng được quan tâm.

Cũng theo luật sư Hà, chính phủ hiện đã cải thiện chính sách, điều chỉnh một số điều khoản liên quan đến thỏa thuận thu mua điện gió. Theo đó, các nhà phát triển sẽ được bồi thường trong trường hợp EVN đơn phương chấm dứt hợp đồng.

Điện gió không phải là nguồn năng lượng sạch duy nhất phát triển tại Việt Nam. Năng lượng mặt trời cũng đang được đầu tư phát triển với mục tiêu đạt 12.000 MW từ nay cho đến năm 2030.

Đông Nam Á là khu vực chịu nhiều tác động từ biến đổi khí hậu. Do đó, việc giảm dần các hoạt động sản xuất năng lượng gây ô nhiễm môi trường là điều thiết yếu đối với các quốc gia trong khu vực này.

Dù xỉ than là một trong những nguyên nhân chính gây tác động đến hiện tượng nóng lên toàn cầu, Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào nhiệt điện và các nhà máy này vẫn nhận được hỗ trợ đáng kể từ nhà nước. Điều này càng làm giảm tính cạnh tranh của năng lượng sạch trên thị trường Việt Nam về mặt chi phí. Dù được dự đoán rằng thị trường sẽ có những thay đổi đáng kể trong vài năm tới, nhưng theo quy hoạch phát triển điện lực quốc gia dự tính đến năm 2030, thì nhiệt điện từ than đá vẫn sẽ chiếm hơn phân nửa công suất điện toàn quốc.

Đây không phải là tin tốt cho cư dân vùng duyên hải Việt Nam, nơi thường xuyên xảy ra tình trạng ngập lụt mỗi khi mực nước biển dâng cao. Đây là vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, nhưng trong vài năm gần đây, sản lượng hoa màu đang có dấu hiệu giảm sút đáng kể do thường xuyên bị hạn hán và ngập lụt gây ra.

Translation by Đỗ Tôn Minh Khoa

Like this content? Join our growing community.

Your support helps to strengthen independent journalism, which is critically needed to guide business and policy development for positive impact. Unlock unlimited access to our content and members-only perks.

Terpopuler

Acara Unggulan

Publish your event
leaf background pattern

Transformasi Inovasi untuk Keberlanjutan Gabung dengan Ekosistem →